Sea Waybills” được hiểu là “Biên lai gửi hàng đường biển”.
Seaway Bill là chứng từ quan trọng được sử dụng trong vận tải quốc tế đường biển. Chứng từ này có nhiều điểm tương đồng và khác biệt so với Bill of lading.
>>>>>> Xem nhiều: Review Khóa Học Xuất Nhập Khẩu Online Ở Đâu Tốt Nhất?
Để hiểu hơn về thuật ngữ này, cùng xuatnhapkhauonline.com tìm hiểu trong bài viết dưới đây:
1.Seaway Bill là gì?
Vì vận đơn đường biển là một chứng từ sở hữu hàng hoá, do đó để nhận được hàng tại cảng đích, nhất thiết người nhận hàng phải xuất trình vận đơn gốc cho hãng tàu. Trường hợp hàng đã đến cảng đích, mà vận đơn chưa tới ngân hàng phát hành LC, thì ngân hàng có thể phát hành một bảo lãnh nhận hàng cho người nhận hàng đi nhận hàng.
Khi đã phát hành bảo lãnh nhận hàng, nghĩa là ngân hàng đã chấp nhận thanh toán bộ chứng từ cho dù có thể có những sai biệt khi nhận được sau này. Vì vậy, các ngân hàng
thường cân nhắc rất kỹ khi phát hành bảo lãnh nhận hàng và đưa ra các điều kiện thanh toán rất chặt chẽ đối với người yêu cầu mở LC.
Ngày nay, do áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong vận tải biển, đã rút ngắn được thời gian chạy tàu, vì vậy, đối với các cảng biển gần nhau như giữa Việt Nam và Singapore, khu vực châu u, Nam Mỹ, Scandinavia và tại một số vùng Viễn Đông, thì hàng hóa thường đến trước khi bộ chứng từ gửi qua bưu điện tới được ngân hàng phát hành LC.
Nếu ngân hàng phát hành LC không sẵn sàng phát hành một bảo lãnh nhận hàng, thì hàng hoá phải lưu kho, lưu bãi, gây tốn kém và rủi ro cho bên mua và bán, làm chậm quá trình lưu thông hàng hoá. Đề khắc phục hạn chế nêu trên của vận đơn, người ta đã sử dụng Seaway Bill để thay thế cho vận đơn đường biển.
2.Chức năng của Seaway Bill:
Seaway Bill có hai chức năng chính:
Thứ nhất, là biên lai nhận hàng của người chuyên chở phát hành cho người gửi hàng: /j/ hai, là bằng chứng về hợp đồng chuyên chở hàng hóa giữa người gửi hàng và người chuyên chở.
Như vậy, chức năng thứ ba của vận đơn mà Seaway Bill không có, đó là chứng từ sở hữu hàng hóa ghi trên vận đơn. Vì không phải là chứng từ sở hữu hàng hoá, nên Seaway Bill không thể chuyển nhượng bằng thủ tục ký hậu thông thường, và không thể dùng biên lai gửi hàng này để nhận hàng tại cảng đích. Như vậy, Seaway Bill được sử dụng trước hết như là chứng từ xác nhận việc nhận hàng của người chuyên chở và là bằng chứng về hợp đồng chuyên chở giữa hãng vận tải và chủ hàng. Hàng hóa sẽ được giao cho người nhận hàng khi người này được xác thực là người nhận hàng hợp pháp theo chỉ thị của người chủ hàng.
Điều này cũng tương tự như việc gửi hàng bằng đường bưu điện. Khách hàng được thông báo xuất trình chứng từ để chứng minh mình là người được quyền nhận hàng hợp pháp thì sẽ được giao hàng.
3/ Ưu và nhược điểm của Seaway Bill
Ưu điểm:
Vì vận đơn là chứng từ sở hữu hàng hoá, nên nó phải được gửi cùng với bộ chứng từ tới ngân hàng phát hành LC đề kiểm soát, trong khi đó, Seaway Bill lại được gửi theo tàu củng với hàng hoá, nên khi hàng tới cảng là có thể giao hàng được ngay, đây được xem là một ưu điểm cơ bản của Seaway Bill.
Người chuyên chở thông báo cho người nhận hàng biết khi nào tàu cập cảng để người này chuẩn bị nhận hàng. Để nhận được hàng hoá, người nhận hàng chỉ cần chứng minh mình là người đích thực có tên ghi trên biên lai gửi hàng và được hãng tàu giao hàng. Như vậy, về mặt thủ tục thì Seaway Bill đơn giản hơn nhiều so với vận đơn đường biển.
Do có ưu điểm này, nên khi mua bán theo phương thức ghi sổ (Open Account Terms), sau khi giao hàng người xuất khẩu thường yêu cầu người chuyên chở cấp cho một Biên lai gửi hàng hơn là một vận đơn đường biển.
Nhược điểm:
Tuy nhiên, seaway bïll không phải là không có những hạn chế, ví dụ, seaway bill cản trở mua bán quốc tế (vì seaway bill là rất phức tạp và khó khăn khi người chuyên chở và người nhận hàng là những người xa lạ, mang quốc tịch khác nhau; luật quốc gia của một số nước và công ước quốc tế chưa thừa nhận seaway bill như một chứng từ giao nhận
hàng….
Ở Việt nam, việc áp dụng seaway bill vẫn còn rất mới mẻ, mặc dù đã có cơ sở pháp lý để áp dụng seaway bill.
Hình thức của Biên lai gửi hàng: Vận đơn đường biên và Seaway Bill là giống hệt nhau, ngoại trừ trên Seaway Bill có ghi câu “Non-negotiable SeaWay bills”.
4.Quy trình phát hành Seaway bill:
Người xuất khẩu giao hàng cho hãng tàu và yêu cầu sử dụng Seaway bill, không phát hành B/L gốc;
Hãng tàu sẽ phát hành ra SWB giao cho người xuất khẩu để chứng minh đã nhận hàng của người xuất khẩu.
Ngay sau khi tàu chạy, hãng tàu đầu xuất báo cho hãng tàu đầu nhập biết về việc sử dụng SWB. Lô hàng khi ấy coi như đã được thả ra sẵn. Hành động này được văn phòng hãng tàu hai đầu thực hiện trên cùng một hệ thống điện tử nội bộ.
Việc thả hàng này diễn ra trên hệ thống điện tử nên người ta còn gọi đây là hình thức E-B/L (Electronic B/L). Việc thả hàng diễn ra rất nhanh nên còn gọi là Express Bill (Thả hàng tốc hành).
Hãng tàu cho hàng đi. Hàng đến cảng đích.
Dù người xuất khẩu gửi/hoặc không cần gửi bản SWB này cho người nhập khẩu khi gửi bộ chứng từ lô hàng. (Chỉ cần gửi bản mềm để người nhập khẩu yên tâm là hàng đã được giao lên tàu)
Người nhập khẩu đến Văn phòng hãng tàu đầu nhập xuất trình Thông báo hàng đến + và giấy giới thiệu công ty là lấy được hàng. (không cần có SWB bản cứng)
Nếu vậy thì quá rủi ro cho người xuất khẩu nếu người nhập khẩu chưa trả/trả đủ tiền hàng. Vì nếu dùng Seaway bill thì theo đúng nguyên tắc, hãng tàu sẽ tự động thả hàng ra mà không cần đợi xác nhận của người xuất khẩu.
Do vậy, người xuất khẩu phải làm việc rõ với hãng tàu đầu xuất: chỉ được thả hàng khi có xác nhận của người xuất khẩu. Một vài hãng tàu đồng ý chấp nhận đề nghị này. Nhưng một vài hãng tàu rất cứng nhắc và làm đúng nguyên tắc “thả hàng không cần ai xác nhận” nêu trên. Lúc này, người xuất khẩu rất rủi ro. Nếu gặp trường hợp như vậy, người xuất khẩu nên chuyển sang dùng Surrendered B/L (hãng tàu chỉ thả hàng khi có lệnh/xác nhận Release của người xuất khẩu).
Đặc biệt, trong trường hợp người nhập khẩu là người thuê tàu (theo Incoterms nhóm E, F), cho dù người xuất khẩu đã thoả thuận trước với hãng tàu “Khi nào người xuất khẩu xác nhận/ra lệnh mới được thả hãng” + “Hãng tàu đồng ý việc này”, thì người nhập khẩu sẽ ép hãng tàu/dùng quyền lực mềm/quan hệ của mình với hãng tàu để đề nghị hãng tàu làm đúng nguyên tắc theo Seaway bill mà thả hàng ra cho người nhập khẩu nếu người nhập khẩu xuất trình đúng giấy tờ chứng minh người nhập khẩu là Consignee (mặc dù chưa thanh toán tiền hàng cho người xuất khẩu). Người nhập khẩu hoàn toàn đúng đắn trong việc này.
Như vậy, rủi ro nghiêng về người xuất khẩu. Để giảm thiểu rủi ro này, người xuất khẩu nên giành được quyền thuê tàu, để tiếng nói của họ trước hãng tàu có trọng lượng hơn.
Nhưng dù ai thuê tàu và bằng cách nào đi nữa, người viết muốn nhắc lại, dùng Seaway bill nghĩa là sau khi người xuất khẩu đã giao hàng cho hãng tàu, hàng đã được thả ra cho người nhập khẩu – người xuất khẩu không thể đòi lại được hàng – không thể giam hàng lại khi hàng đến cảng đích – hàng hoá đó nằm trong quyền đoạt của hãng tàu – hàng đã được chuyển quyền sở hữu sang cho người nhập khẩu ngay khi hàng được giao cho hãng tàu.
Nguồn tham khảo: Seaway Bill
Hy vọng bài viết về Seaway Bill của Xuất nhập khẩu online sẽ hữu ích tới bạn.
Xem thêm:
Trả lời